Nông nghiệp xanh – Bài cuối: Phá vỡ các rào cản

Tại Việt Nam, nhiều địa phương, nhiều mô hình cũng đã và đang trong quá trình chuyển đổi phát triển nông nghiệp xanh, sinh thái theo xu hướng thị trường thế giới cũng như giúp giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu. Chia sẻ về những định hướng cũng như các giải pháp phát triển nông nghiệp xanh, phát thải cac-bon thấp, phóng viên Thông tấn xã Việt Nam đã có cuộc trao đổi với GS. TS Võ Tòng Xuân, Hiệu trưởng danh dự trường Đại học Nam Cần Thơ.

PV: Ông đánh giá như thế nào về triển vọng và thách thức đối với phát triển nông nghiệp xanh ở Việt Nam hiện nay?

Nông nghiệp xanh có thể hiểu đơn giản là nền nông nghiệp phù hợp với môi trường sinh thái, không phát thải khí nhà kính. Việt Nam hướng tới nền nông nghiệp xanh là cần thực hành nông nghiệp để không phát thải khí nhà kính, không gây ra tác động biến đổi khí hậu.

Sản xuất nông nghiệp cần phải hướng đến chất lượng để giữ môi trường bền vững, chứ không phải mong muốn năng suất phải rất cao như trước đây. Hiệu quả kinh tế mang lại khi áp dụng quy trình “3 giảm 3 tăng”, “1 phải 5 giảm” đã rõ, giá thành lúa giảm mà gạo đạt chất lượng gạo sạch, an toàn. Việc áp dụng đồng bộ các quy trình ngoài hiệu quả kinh tế mang lại, còn giúp giảm thiểu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu.

Hiện phần lớn nông dân không làm nông nghiệp xanh vì đang sử dụng quá nhiều hóa chất, nhất là phân bón hóa học. Khi nông dân lạm dụng phân bón hóa học sẽ gây ra các phản ứng trong đất, biến phân bón hóa học thành các khí nhà kính, gây nên biến đổi khí hậu.

Chẳng hạn, nông dân trồng lúa, hoa màu… bón nhiều phân urê thì sẽ tạo ra nhiều khí NO2. Đây là khí độc, làm cho khí quyển ấm lên, gây biến đổi khí hậu.

Trước tình trạng biến đổi khí hậu, nông dân khắp nơi trên thế giới đang tiến tới áp dụng sản xuất nông nghiệp xanh, sử dụng phân bón vi sinh, hữu cơ thay cho phân hóa học. Việc này sẽ giúp phục hồi tình trạng nguyên thủy của đất với nhiều vi sinh vật, có thể biến khoáng chất trong đất thành chất bổ dưỡng tự nhiên cho cây trồng. Từ đó, sản phẩm của nông dân sạch, an toàn vệ sinh thực phẩm, đồng thời giúp cho khí hậu không bị biến đổi.

PV: Khi chuyển từ nền sản xuất nông nghiệp đang thâm dụng tài nguyên, lạm dụng hóa chất, sang nền nông nghiệp xanh, thân thiện môi trường vẫn khoảng cách khá xa và còn nhiều rào cản. Theo ông, rào cản lớn nhất là gì?

Rào cản lớn nhất chính là kiến thức khoa học của nông dân. Khi nông dân không nắm được kiến thức thì sẽ rất dễ lạm dụng các hóa chất. Do đó, nông dân cần ý thức được việc sử dụng hóa chất để tăng năng suất, sản lượng cây trồng trong giai đoạn đầu sẽ cho kết quả cao, nhưng càng sau này kết quả sẽ không như mong đợi, thậm chí gây tác hại lên cây trồng, môi trường đất, nước.

Vấn đề quan trọng là cần nâng cao kiến thức cho người nông dân – người đầu tiên tác động vào sản xuất nông nghiệp.

Hiện nông dân đã bắt đầu nhận thấy rằng nguyên liệu của họ được chế biến,  xuất khẩu sang các thị trường, chẳng hạn như sang EU và bị trả về do vi phạm về các chất cấm, chất lượng không đảm bảo… Chính đây là điều nông dân cần nhận thấy để thay đổi trong sản xuất. Bởi, nếu cứ tiếp tục sản xuất theo kiểu cũ thì sản phẩm của họ sẽ không được tiêu thụ.

Mặt khác, tôi cho rằng Nhà nước cần tích cực tuyên truyền để nông dân hướng đến sản xuất nông nghiệp xanh, sạch. Thị trường tiêu thụ cũng cần hướng đến như các nước tiên tiến áp dụng là sản phẩm còn vi phạm về chất lượng thì sẽ không được tiêu thụ.

PV: Theo ông, Nhà nước cần có cơ chế chính sách gì để tạo điều kiện cho doanh nghiệp và người nông dân hướng đến phát triển nền nông nghiệp xanh?

Cần đưa nông dân vào các hợp tác xã, tổ đoàn kết sản xuất… để cùng sản xuất theo quy trình nông nghiệp sạch. Khi nông dân cùng tham gia sản xuất với quy trình chuẩn thì sản phẩm của họ sẽ được tiêu thụ bởi các tập đoàn, doanh nghiệp lớn với giá cao hơn. Từ đó, nông dân sẽ thấy rằng, làm theo nông nghiệp sạch, nông nghiệp xanh sẽ không bị thua lỗ nhờ giá sản phẩm cao hơn.

Khi liên kết sản xuất, nông dân sẽ được áp dụng những khoa học kỹ thuật mới. Sản xuất nông nghiệp không phát thải, nông dân cũng có thể được thụ hưởng từ việc bán tín chỉ cac-bon. Việc bán tín chỉ cac-bon cũng thu được khoản tài chính cho nông dân nhưng cái được lớn hơn là giúp cho không khí, môi trường nước sạch, phù hợp với sinh thái tự nhiên.

Hiện nhiều doanh nghiệp liên kết với hợp tác xã, nông dân sản xuất nông nghiệp sạch. Nông dân được hướng dẫn sản xuất ngay từ ban đầu với các quy trình kỹ thuật. Doanh nghiệp cũng thu mua nguyên liệu cho nông dân. Nông dân sản xuất sạch thì sản phẩm cũng được xuất khẩu tốt.

Chẳng hạn như những mô hình sản xuất nông nghiệp sạch của Công ty cổ phần Nông nghiệp công nghệ cao Trung An. Nông dân liên kết với doanh nghiệp, sản phẩm được đảm bảo về chất lượng theo yêu cầu thị trường thì nông dân cũng hưởng lợi từ thành quả đó. Đây là những mô hình cần được đẩy mạnh, nhân rộng.

Những doanh nghiệp làm được nông nghiệp sạch cần được tuyên truyền, khuyến kích, động viên để doanh nghiệp dẫn dắt nông dân tham gia thị trường nông nghiệp xanh.

Vai trò của doanh nghiệp là chủ đạo. Nhà nước cần có những cơ chế chính sách khuyến kích, thu hút doanh nghiệp đi đầu trong xây dựng nền nông nghiệp xanh để họ mở thị trường. Mở được thị trường, doanh nghiệp sẽ quay trở về vùng nguyên liệu để áp dụng những tiến bộ kỹ thuật để sản xuất nông nghiệp sạch. Từ thị trường, doanh nghiệp sẽ “điều khiển” nông dân sản xuất xanh, sạch.

Cùng với đó, Nhà nước cũng phải có các quy định khắt khe trong việc sử dụng các hóa chất độc hại. Việc buôn bán, sử dụng hóa chất cấm độc hại phải được kiểm tra, kiểm soát và xử phạt thật nặng nếu các cơ quan chức năng phát hiện.

Xin cảm ơn ông!

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *